Với cái tên Vàng không đổi (Kim bất hoán), Tam thất từ lâu được biết đến như một Thần dược. Nó là món quà quý dùng để biếu, tặng cho phụ nữ lúc ốm đau, lâm bồn. Gà ác (ô kê) hầm Tam thất là món ăn – bài thuốc không thể thiếu được cho sản phụ quyền quý ở các nước Phương Đông.
Ngày xưa, Tam thất nam qúy và hiếm như Nhân sâm hay Linh chi vậy. Bây giờ vẫn qúy song không còn hiếm nữa. Trà Tam thất, bột Tam thất … là thức uống bổ dưỡng thường nhật của nhiều gia đình ở thành phố cũng như nông thôn, nhất là với người già và phụ nữ khi sức khoẻ có phần suy giảm.
Tam thất là rễ của cây Panax notoginseng họ Ngũ gia bì. “Tam thất lá trái 3- lá phải 4 mà thành tên” (Theo Lý Thời Trân). Tam thất có nhiều tên khác như: Nhân sâm tam thất, Phật thủ sơn thất, Huyết sâm, Điền tam thất, Xuyên tam thất, Sâm tam thất, Trấn thất, Điền Tất, Điền thất, Bàn long thất, Hạn tam thất…Tên của nó thường dựa theo vùng trồng (Điền, Trấn, Xuyên…), theo tác dụng (Huyết sâm: sâm bổ huyết), …theo hình dáng (Phật thủ tam thất, Bàn long thất…)
Ở nước ta, Tam thất mọc hoang và được trồng ở vùng núi Hoàng Liên Sơn, vùng đầu nguồn sông Hồng giáp với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Tam thất Việt Nam thường củ nhỏ ruột màu vàng nhạt hoặc củ to rất nhiều mấu mà lại không chắc mấy. Ở Trung Quốc, Tam thất mọc hoang và được trồng nhiều nhất ở Vân Nam, châu Văn Sơn … nơi có chế phẩm “Vân Nam bạch dược” nổi tiếng mấy năm nay. Ngoài ra, ở Tứ Xuyên, Hà Nam, Quảng Tây cũng có Tam thất mọc hoang hay được trồng ở cấp quy mô.
Cách chọn Tam thất
“Vàng không đổi” thì phải là Tam thất loại tốt. Vậy Tam thất thế nào là tốt?
Cũng như Sâm, Tam thất già là tốt nhưng càng già càng chưa chắc đã là tốt vì với Tam thất, củ nằm dưới đất mà nằm quá lâu thì lại hay xơ. Cho nên người ta thường thu hoạch Tam thất từ 4 đến 6 tuổi. ở thời gian này, Tam thất thường cho chất lượng tốt hơn cả (Đó là kinh nghiệm dân gian, còn chờ các nhà khoa học chứng minh).
Củ Tam thất thường có hình giống như con ốc đá hay hình trụ, nhưng theo những người có kinh nghiệm thì củ nào giống ốc đá, màu xám xanh hơi đen hoại nâu, bóng sáng là tốt. Bên ngoài củ Tam thất thường có vết bám vàng ngang hay vết lõm và có cả những lằn dọc không liên tục nữa. Đầu củ có nhiều mấu. Đó là dấu vết của thân cây hàng năm chết đi để lại. Cây càng nhiều mấu thì tuổi càng nhiều là vậy.
Thịt củ Tam thất chắc, khó có thể bẻ bằng tay. Nếu dùng vật nặng đập vỡ thì vỏ và lõi thường tách rời nhau. Mặt cắt cũ có màu xám hơi xanh hoặc vàng đất hoại xám trắng. Củ Tam thất nào có ruột màu xám xanh, mịn chắc không có vết nứt xốp là tốt nhất. Các phiến Tam thất có màu xám xanh hay xám nâu, mịn chắc không nứt là tốt.
Công dụng của Tam thất – Vàng không đổi
Tam thất là một trong những vị thuốc có tác dụng nhiều mặt, mà tác dụng nào cũng đáng tin cậy cả. Vì vậy người xưa, nhất là trong nhà có phụ nữ thì Tam thất được quý hơn vàng vì có những lúc bệnh cấp, có vàng cũng chưa chắc đổi được Tam thất mà dùng. Vì vậy mới có tên “vàng không đổi”.
Theo YHCT, Tam thất có vị ngọt, hơi đắng, tính ôn, vào Kinh, Can, Vị, Tâm, Phế, Đại tràng, có tác dụng hoá ứ, cầm máu, tiêu thũng, giảm đau, bổ khí huyết, (dùng chín) dùng chữa tất cả các chứng xuất huyết, ngã đau sưng bầm tím, đau tức ngực, u bướu, huyết ứ, bế kinh, thống kinh, sản hậu huyết hư gây đau bụng, các loại mụn nhọt sưng đau, khí huyết lưỡng hư, tức ngực…
Chú ý: Phụ nữ có thai cần cẩn thận khi dùng. Người huyết nhiệt không dùng.
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.